“Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy kính trọng những người đang làm việc vất vả giữa anh em, là những người vì Chúa mà hướng dẫn và khuyên bảo anh em. Hãy lấy lòng yêu thương mà tôn kính họ vì công việc họ làm. Hãy sống hòa thuận với nhau” (I Tê-sa-lo-ni-ca 5:12-13).
Có những người chăn chen lấn nhau
Nhờ phân chiên bón xén hoa mầu
Người chăn thuê chỉ cần huê lợi
Bởi có nhiều chiên mới sang giàu
Có những người chăn thích leo cao
Tới đâu cũng muốn nhảy qua rào
Vơ cho bằng được chiên chuồng khác
Gom một bầy to để xôn xao
Cũng có người chăn ăn thịt chiên
Luôn luôn săn đuổi lợi danh quyền
Con nào mập mạp săn sóc kỹ
Con đói gầy xô bỏ ngửa nghiêng (Xa-cha-ri 11:16)
Có những người chăn vội vã chăn
Rất quen múa gậy xé tung màn
Làm như kịch sỹ trên sân khấu
Hăng hái như người đi vỡ hoang
Có những người chăn húc người chăn
Làm chiên ngơ ngác chạy tan hoang
Từ từ nhặt nhạnh từng con một
Im ỉm nhìn chiên ai rã tan
Có những người chăn phải xa chiên
Chân tay bị khoá để nằm yên
Âm thầm cam chịu bao bắt bớ
Trung tín nguyện cầu chiên nghỉ yên
Có những người chăn phải đớn đau
Bàn chân rỉ máu những đêm thâu
Đi tìm chiên lạc, chiên thương tổn
Nâng đỡ từng con rịt với dầu
Có những người chăn trông ốm o
Thấp hèn yếu đuối tợ Phao-lô
Bị anh em giả tìm bắt bớ
Vu khống bao điều oan trái cho
Có những người chăn biết khóc than
Tưới lên đồng cỏ nước mắt tràn
Để lương thực sống luôn đầy đủ
Ngắm nghía bầy chiên nghỉ trong ràn
Có những người chăn yêu mến chiên
Từng con mang những nỗi yếu mềm
Ghi vào sổ nhớ trình lên Chủ
Tiếp nhận lời răn Chủ nhắc khuyên
Có một người chăn nghe tiếng chiên
Mỗi con một giọng thở than phiền
Lắng nghe tất cả rồi ấp ủ
Hôm sớm đôi bề được ủi yên
Có một người chăn chết vì chiên
Người chăn duy nhất: Đấng Chăn hiền
Không hề có chỗ riêng kê gối
Đổ huyết mình ra chuộc bầy chiên
HUỆ NHẬT
(Nguyệt San Người Chăn Bầy 2)