Vườn Ê đen mới
TIN LÀNH CỦA LỀU TẠM – MS Huỳnh Ngọc Ẩn
Như Thánh Kinh bày tỏ, kiểu mẫu của Lều Tạm được chính Đức Chúa Trời truyền cho Môi se dựng theo thiết kế của Ngài. Đây là nơi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời có thể gặp tuyển dân trong đồng vắng trên đường họ tiến vào xứ Ca-na-an là đất mà Ngài đã hứa ban cho họ. Đây là nơi mà Môi-se có thể cầu hỏi để biết được ý chỉ của Ngài phán dạy để hướng dân chúng đi trong thánh ý của Ngài. Qua đó, Môi-se có thể làm vững mạnh lòng tin của dân chúng nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Đấng đã giải phóng họ ra khỏi ách nô lệ vẫn đang ngự trị, ở cùng họ trong hoang mạc ghớm ghê nầy.
Bây giờ chúng ta cùng nhau đi vào chi tiết hơn về Lều Tạm nầy để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chương trình kỳ diệu của Đức Chúa Cha dành cho dân tuyển ngày xưa; đồng thời cũng là hình bóng bày tỏ về Cứu Chúa Jêsus Christ như Thánh Phao-lô đã đề cập trong I Cô-rinh-tô 10:11 “Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng-ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời.”
1. CÁI CỬA
Muốn vào bên trong Lều Tạm người ta phải bước qua một cái cổng. Cổng này là bóng của Chúa Cứu Thế như Ngài công bố: “Ta là cửa; nếu ai bởi Ta mà vào, người ấy sẽ được cứu, và sẽ vào ra và gặp đồng cỏ.” (Giăng 10:9) Không ai vào Đền Tạm mà không qua cái cửa này: “Ta là con đường, chân lý, và sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Ta.” (Giăng 14:6 Bản dịch 2011) Thế gian có nhiều cổng rộng cho mọi người, nhưng Chúa Giê-xu là cái cổng hẹp. Muốn tiếp cận Đức Chúa Trời thì “Hãy vào cổng hẹp, vì cổng rộng và đường rộng dẫn đến sự hủy diệt; có nhiều người đi vào đường đó; trong khi cổng hẹp và đường hẹp dẫn đến sự sống, lại có ít người tìm vào.” (Ma-thi-ơ 7:13-14)
2. BÀN THỜ BẰNG ĐỒNG
Bước vào bên trong, trước tiên chúng ta thấy một bàn thờ dâng của lễ thiêu bằng đồng ở bên phải. Tại đây thầy tế lễ giết sinh tế, đổ huyết ra và đốt thịt con sinh tế dâng lên cho Đức Chúa Trời để tuyển dân nhận được sự tha thứ và sự phục hòa cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Điều nầy tượng trưng cho thập tự giá Gô-gô-tha nơi Chúa Jêsus Christ trở nên sinh tế cho nhân loại nói chung và cho riêng mỗi một Cơ Đốc nhân chúng ta. Huyết báu của Ngài đã đổ ra để cho con người nhận được sự tha thứ và được phục hòa cùng Đức Chúa Trời.
Thầy tư tế phải dâng con sinh trước khi bước vào nơi thánh để phụng vụ.
Thật biết ơn Đức Chúa Jêsus Christ, nếu như con sinh tế ngày xưa được dâng tại bàn thờ bằng đồng nầy để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi sự phán xét của luật pháp và được phục hòa lại cùng Đức Chúa Trời, thì tại nơi thập tự giá cao vời của Chúa Jêsus năm xưa, Ngài cũng đã phóng thích chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp (Mười Điều Răn) mà con người bất toàn không thể thỏa mãn được luật pháp công bình của Cha Thiên Thượng. Đấng Christ dâng thân thể Ngài làm sinh tế cho chúng ta. Chúng ta thấy được điều nầy trong thư tín Hê-bơ-rơ 9:22 “Theo luật pháp thì hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được sạch: không đổ huyết thì không có sự tha thứ.” Và trong hơi thở cuối cùng của mình trên đất nầy Chúa Jêsus đã khẳng định rằng: “… Mọi việc đã được trọn rồi…” (Giăng 19:30). Vâng, Đức Chúa Jêsus đã hoàn thành chương trình cứu chuộc tuyệt vời của Đức Chúa Cha nơi thập tự giá nầy để con người bởi đức tin đón nhận và vui hưởng ân hhuệ trọn lành của Đức Chúa Trời qua con Độc Sanh của Ngài.
Thật cám ơn Chúa, cũng tại thập tự giá nầy, Ngài đã đụng độ với Sa-tan và tước đoạt vũ khí của nó. Bởi huyết báu của Chúa Jêsus đã đổ ra, Ma quỷ đã mất hết quyền lực của nó và giải phóng con người được tự do khỏi sự áp bức, kiểm soát của nó. Ma-thi-ơ 28:18: “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta.” Và Cô-lô-se 2:14-15 “Ngài đã xóa tờ khế lập nghịch cùng chúng ta, các điều khoản trái với chúng ta nữa, cùng phá hủy tờ khế đó mà đóng đinh trên cây thập tự; Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ.” Giờ đâyđây, chúng ta hãy cùng nhau bước qua chậu nước bằng đồng phía bên trái của LềuTạm.
2. CHẬU NƯỚC BẰNG ĐỒNG
Trước khi bước vào nơi Thánh của Lều Tạm, thầy tế lễ phải rửa mình để được tẩy sạch,để được thánh hóa. Điều nầy tượng trưng cho địa vị công chính, được nên thánh mà Cứu Chúa Jêsus Christ xưng cho những ai tin nhận Ngài làm Cứu Chúa của cuộc đời mình. Đó cũng chính là lời mà Ngài đã khẳng định cùng các môn đồ mình khi xưa trong Phúc m Giăng 15:3 “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho.”
Chậu nước và nghi thức thanh tẩy là bóng của phép báp tem của Cơ Đốc nhân sau khi tái sanh.
Đời sống Cơ Đốc nhân của chúng ta cần phải tiếp cận với lời Chúa hằng ngày để quyền phép của Ngôi Lời biến đổi, thánh hóa chúng ta. Vì lời Ngài dạy trong I Phi-e-rơ 1:15 “Nhưng, như Đấng gọi anh em là thánh, thì anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn ở mình.” Rời chậu nước nầy, chúng ta hãy cùng nhau bước vào nơi Thánh của Lều Tạm.
3. CHÉN ĐÈN BẰNG VÀNG
Bước vào bên trong Đền Tạm, phòng đầu là nơi thánh. Bên trái của nơi Thánh là chân đèn bằng vàng có bảy nhánh hằng chiếu sáng luôn.Tại đây, không có một sự sáng nào khác hơn là sự sáng được phát ra từ nơi chân đèn bằng vàng nầy, hay các thầy tế lễ cũng không thể đem một ánh sáng nào khác vào nơi đây.
Chân đèn phải được làm bằng vàng ròng, được rèn với độ chính xác hoàn hảo theo sắc lệnh của Đức Chúa Trời (Xuất Ai Cập 25:31).
Toàn bộ chân đèn phải được tạo hình như một cái cây với phần đế và trục ở giữa tượng trưng cho thân cây và có ba “nhánh” ở mỗi bên. Phần trên cùng của trục và của mỗi nhánh phải được làm giống như một bông hoa hạnh nhân đang nở; mỗi bông hoa cầm một ngọn đèn dầu (Xuất Ai Cập 25:32,37). Có một số đoạn trong Kinh thánh nói về cây hạnh nhân, cây luôn là cây đầu tiên ra hoa và kết trái vào mùa xuân, sớm nhất là vào tháng Hai. Sứ đồ Phao-lô gọi Đấng Christ là “trái đầu mùa” vì Chúa Giê-xu là người đầu tiên sống lại từ cõi chết để đến sự sống đời đời, và vì sự phục sinh của Ngài, tất cả những người tin Chúa cũng sẽ sống lại (1 Cô-rinh-tô 15:20–23;Rô-ma 8:23).
Đức Chúa Trời đã sử dụng cây gậy của A-rôn như một dấu hiệu cho dân Y-sơ-ra-ên về chức tư tế độc nhất của ông. Vào một thời điểm, khi chức tư tế của A-rôn đang bị thử thách, Đức Chúa Trời đã làm cho cây gậy của A-rôn đâm chồi và mọc thành những quả hạnh chín mọng chỉ sau một đêm; phép lạ này tái khẳng định rằng đặc ân được chọn làm Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm chỉ đến qua sự bổ nhiệm của Đức Chúa Trời (Dân Số Ký 16:3;17:10). Đây là “bóng của những điều sẽ đến” cho thấy Chúa Giê-xxu, Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm vĩnh viễn được Đức Chúa Trời sắc phong, ban sự sống (Hê-bơ-rơ 7:21).
Trong đền tạm, chân đèn được đặt ở phần thứ nhất, được gọi là Nơi Thánh (Hê-bơ-rơ 9:2). Ngọn đèn sẽ được A-rôn và các con trai của ông chăm sóc để ánh sáng của nó không bao giờ tắt. Chân đèn chiếu sáng cả ngày lẫn đêm (Xuất Ai Cập 27:20–21). Chân đèn là nguồn sáng duy nhất chỉ thẳng vào Đấng Christ là sự sáng của thế gian (Giăng 8:12;9:5). Chúa Giê-xu là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Giăng 1:9) và cách duy nhất để mọi người có thể đến với Cha (Giăng 14:6).
Chúa Giê-xu cũng gọi hội thánh của Ngài là “ánh sáng của thế gian” (Ma-thi-ơ 5:14), không phải do họ làm nhưng vì Đấng Christ đang ở trong hội thánh (Giăng 1:4–5). Một Cơ đốc nhân được chiếu sáng với ánh sáng của Đấng Christ sẽ sống một đời sống tin kính (1 Phi-e-rơ 2:9). Kinh thánh tràn ngập các tài liệu tham khảo so sánh và đối chiếu ánh sáng và bóng tối, người tin và người không tin, cho đến tận sách Khải Huyền. Trong Khải Huyền, 1:20 Đấng Christ nói “bảy chân đèn là bảy hội thánh.” Các nhà thờ của Đấng Christ phải bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa Trời (1 Giăng 1:7) và rao truyền ánh sáng Tin Mừng để muôn dân tôn vinh Thiên Chúa (Ma-thi-ơ 5:16).
Có một biểu tượng khác trong giá đèn: nó được làm bằng một mảnh, vì Đấng Christ là một với hội thánh của Ngài (Cô-lô-se 1:8); sáu nhánh (6 là số lượng con người) cộng với trục chính bằng bảy ngọn đèn (7 là số lượng hoàn thành)—con người chỉ hoàn thiện trong Đấng Christ (Giăng 15:5).
Điều quan trọng nhất cần lưu ý về chân đèn là nó chỉ về Đấng Christ, cũng như tất cả các yếu tố của đền tạm. Kinh thánh từ đầu đến cuối là một bằng chứng về Đấng Christ và kế hoạch cứu chuộc nhân từ của Đức Chúa Trời. Ngợi khen Chúa, Ngài đã đem con cái Ngài ra khỏi bóng tối và vào ánh sáng diệu kỳ của Ngài (1 Phi-e-rơ 2:9). (tư liệu của Gotquestions.org)
4. BÀN ĐỂ BÁNH TRẦN THIẾT
Rời chân đèn bằng vàng, đi qua mé bên phải chúng ta sẽ thấy bàn để bánh trần thiết.
Bánh của Sự Hiện Diện (còn được gọi là bánh trưng bày hoặc bánh chiên trong một số bản dịch) là loại bánh đặc biệt luôn có mặt trên bàn trong đền tạm (và sau này trong ngôi đền).
Bánh trần thiết trong Cựu Ước được đặt trên bàn trong đền tạm cung cấp một bức tranh tuyệt vời về Chúa Giê-xu, Bánh của cuộc sống. Chúa Giê-xu thánh khiết trước mặt Đức Chúa Trời, Ngài cung cấp thức ăn thật và Ngài luôn hiện diện. “Ta là bánh của sự sống. Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói, và ai tin Ta sẽ không bao giờ khát.” (Giăng 6:35).
Một tài liệu tham khảo Tân Ước khác, Hê-bơ-rơ 9:1–2, đề cập đến bảng bánh trần thiết là một trong những mục trong phần đầu tiên của đền tạm. Cũng bao gồm ở nơi đó là chân đèn. Câu 15 ghi nhận: “Vì lý do đó Ngài là Ðấng Trung Gian của giao ước mới, để những người được gọi có thể nhận lãnh cơ nghiệp đời đời đã hứa, vì cái chết đã xảy ra để cứu chuộc những người phạm tội dưới giao ước thứ nhất.” Bối cảnh giải thích rằng các khía cạnh quan trọng của luật pháp Do Thái không còn cần thiết nữa vì Đấng Christ đã trở thành thầy tế lễ thượng phẩm một lần đủ cả. (Tư liệu của Gotquestions.org)
Bây giờ, chúng ta hãy tiến về phía trước bàn bánh trần thiết, chúng ta sẽ thấy bàn thờ xông hương.
5. BÀN THỜ XÔNG HƯƠNG
Mặt trên của bàn thờ hình vuông—một cu-đê mỗi cạnh—và toàn bộ bàn thờ cao hai cu-đê. Một khối dài khoảng năm mươi cm. Bàn thờ xông hương được làm bằng gỗ keo và thếp vàng. Nó có bốn “sừng” ở bốn góc, tương tự như bàn thờ hiến tế trong sân (Xuất Ai Cập 30:2; xem 27:2). Các vòng vàng được đóng vào bàn thờ để có thể khiêng bằng các cọc gỗ keo luồn qua các vòng. Bàn thờ xông hương được đặt trước bức màn ngăn cách Nơi Thánh với Nơi Chí Thánh. Ở phía bên kia của bức màn là Hòm Chứng Ước, nơi có sự hiện diện của Đức Chúa Trời (Xuất Ai Cập 25:22).
A-rôn được hướng dẫn thắp hương trên bàn thờ mỗi sáng và lúc chạng vạng mỗi ngày, như một lễ vật thường xuyên dâng lên Chúa (Xuất Ê-díp-tô Ký 30:7–8). Đức Chúa Trời đưa ra công thức làm hương và quy định rằng không bao giờ được đốt hương khác trên bàn thờ (câu 34–38). Các ngọn lửa dùng để đốt hương luôn được lấy từ bàn thờ dâng của lễ thiêu bên ngoài nơi thánh (Lê-vi Ký 16:12). Bàn thờ xông hương không bao giờ được dùng để dâng của lễ thiêu, của lễ chay hay của lễ quán (Xuất Ai Cập 30:9). Mỗi năm một lần, vào Ngày Chuộc Tội, thầy tế lễ thượng phẩm phải bôi huyết lên các sừng của bàn thờ xông hương để tẩy sạch nó. Bàn thờ xông hương được gọi là “rất thánh cho Chúa” (câu 10).
Dĩ nhiên, ước muốn chính yếu của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài là họ nên thánh. Chỉ thực hiện các nghi lễ mà Luật pháp đòi hỏi—kể cả việc xông hương trên bàn thờ xông hương—không đủ để khiến dân Y-sơ-ra-ên hòa thuận lại với Đức Chúa Trời. Chúa muốn tấm lòng và cuộc sống của họ ngay thẳng, không chỉ là những nghi lễ của họ. Trong thời của Ê-sai, dân chúng không vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn duy trì các nghi lễ trong đền thờ, và đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời phán qua nhà tiên tri, “Thôi, đừng dâng cho Ta các của lễ chay vô ích nữa;
Ta ghê tởm mùi hương khói các ngươi dâng lắm rồi” (Ê-sai 1:13).
Điều quan trọng hơn cả việc đốt hương đúng giờ, đúng lúc với ngọn lửa thích hợp và dụng cụ thích hợp là có một tấm lòng đúng đắn trước mặt Đức Chúa Trời.
Trong Kinh thánh, hương thường được kết hợp với lời cầu nguyện. Đa-vít đã cầu nguyện: “Nguyện lời cầu nguyện của con như hương thơm trước mặt Ngài;” (Thi Thiên 141:2). Trong khải tượng về thiên đàng, Giăng nhìn thấy các trưởng lão quanh ngai vàng, tay cầm một bát bằng vàng đựng đầy hương, đó là những lời cầu nguyện của các thánh đồ” (Khải Huyền 5:8; xem 8:3). Khi thầy tế lễ Xa-cha-ri dâng hương trong đền thờ ở Lu-ca 1:10, “tất cả những người thờ phượng tụ tập đang cầu nguyện bên ngoài.”
Như vậy, bàn thờ xông hương có thể được coi là một biểu tượng cầu nguyện của dân Chúa. Những lời cầu nguyện của chúng ta bay lên tới Chúa như khói hương bay lên trong thánh đường. Như hương được đốt bằng lửa từ bàn thờ dâng của lễ thiêu, những lời cầu nguyện của chúng ta phải được thắp lên bằng ân điển của thiên thượng. Việc hương luôn cháy có nghĩa là chúng ta nên luôn cầu nguyện (Lu-ca 18:1;1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:17). Bàn thờ xông hương là thánh cho Chúa và được chuộc bằng máu của con sinh tế; chính máu của Đấng Christ được bôi vào lòng chúng ta mới làm cho lời cầu nguyện của chúng ta được chấp nhận. Lời cầu nguyện của chúng ta nên thánh nhờ sự hy sinh của Chúa Giê-xu, và do đó chúng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Bàn thờ xông hương cũng có thể được coi là hình ảnh về sự cầu thay của Chúa Cứu Thế. Giống như bàn thờ sinh tế trong sân là biểu tượng về sự chết của Đấng Christ vì chúng ta, bàn thờ xông hương trong Nơi Thánh là biểu tượng của sự chết của Chúa Kitô thay cho chúng ta—công việc của Đấng ChristChrist trên đất và trên trời. Bàn thờ xông hương được đặt trước nắp thi ân của Hòm Giao Ước—hình ảnh Đấng Biện Hộ của chúng ta đang đứng trước mặt Đức Chúa Cha (Hê-bơ-rơ 7:25; 9:24). Hương phải cháy liên tục trên bàn thờ xông hương, điều này cho thấy bản chất vĩnh viễn của sự trung gian của Đấng Christ. Sự cầu thay của Đấng Christ cho chúng ta là hương thơm ngào ngạt đối với Đức Chúa Trời.
Thật đẹp khi biết rằng Đức Chúa Trời xem lời cầu nguyện của các tín đồ giống như hương thơm ngào ngạt. Nhờ Đấng Christ, giờ đây chúng ta có thể bước vào nơi hiện diện thánh của Đức Chúa Trời bằng đức tin, với sự bảo đảm trọn vẹn (Mác 15:38; Hê-bơ-rơ 4:16). Chúng tôi dâng lời cầu nguyện trên bàn thờ, tin cậy nơi Chúa Giê-xu, Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm đời đời, trọn vẹn và trung thành của chúng tôi (Hê-bơ-rơ 10:19–23). (Gotquestions.org)
6. BỨC MÀN
Ở phía sau Nơi Thánh là một căn phòng nhỏ hơn được gọi là Nơi Chí Thánh. Một bức màn ngăn chia Nơi Thánh vàà nơi Chí Thánh.
Trong căn phòng nhỏ hơn này là hòm giao Ước. Trên đỉnh hòm là một khu vực đặc biệt gọi là nắp thi ân. Đây được coi là ngai vàng của Chúa. Trong khi Chúa ở khắp mọi nơi, địa điểm này được coi là một nơi đặc biệt để Chúa ngự giữa dân Ngài. Phòng thứ hai này chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm mới được vào một ngày trong năm, Ngày Chuộc Tội, và chỉ với một sự hy sinh bằng máu. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ vào Nơi Chí Thánh với làn khói (từ bàn thờ xông hương) để giúp che khuất tầm nhìn của mình và rảy máu lên hòm giao ước để chuộc tội cho dân chúng. Bất cứ ai bước vào căn phòng này khi không được phép sẽ bị giết.
Đền tạm và đền thờ nhấn mạnh sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở giữa dân Ngài. Chúa luôn ở đó và có thể tiếp cận được. Đồng thời, Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh nhấn mạnh đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và sự bất khả tiếp cận của Ngài do tội lỗi của con người.
Khi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá, ba sách Phúc âm tường thuật rằng bức màn của đền thờ, bức màn ngăn giữa Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh, đã bị xé ra làm đôi một cách siêu nhiên (xem Ma-thi-ơ 27:51;Mác 15:38; và Lu-ca 23:45). Bức màn bị rách tượng trưng con đường đến với Đức Chúa Trời giờ đây đã mở ra cho tất cả mọi người thông qua sự chết của Đấng Christ. Máu của một con vật không còn cần thiết nữa. Hê-bơ-rơ 10:19–22a giải thích: “Vậy thưa anh chị em, vì nhờ huyết của Ðức Chúa Jesus, chúng ta được dạn dĩ vào Nơi Chí Thánh bằng một con đường mới và sống mà Ngài đã mở cho chúng ta xuyên qua bức màn, tức xuyên qua xác Ngài, và vì chúng ta có một Vị Tư Tế vĩ đại đang cai quản nhà Ðức Chúa Trời, chúng ta hãy đến gần Ðức Chúa Trời với lòng chân thành trong sự bảo đảm hoàn toàn của đức tin, tấm lòng được tẩy sạch khỏi lương tâm xấu, và thân thể được rửa sạch bằng nước trong.”
ĐỂ NGHIÊN CỨU THÊM
7. NƠI CHÍ THÁNH
Căn phòng được biết đến với cái tên Nơi Chí Thánh là khu vực trong cùng và linh thiêng nhất của đền tạm của Môi-se và đền thờ Giê-ru-sa-lem thời cổ đại. Nơi Chí Thánh được xây dựng như một khối lập phương hoàn hảo. Nó chỉ chứa hòm giao ưước, biểu tượng về mối quan hệ đặc biệt của Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời. Nơi Chí Thánh chỉ dành cho thầy tế lễ thượng phẩm Y-sơ-ra-ên. Mỗi năm một lần, vào Yom Kippur, Ngày Lễ Chuộc Tội, thầy tế lễ thượng phẩm được phép vào khu vực kín nhỏ, không có cửa sổ để thắp hương và rảy máu của con vật hiến tế trên ghế thương xót của Hòm Giao Ước. Bằng cách đó, thầy tế lễ thượng phẩm đã chuộc tội lỗi của mình và của dân chúng. Nơi Chí Thánh được ngăn cách với phần còn lại của đền tạm/đền thờ bằng bức màn, một tấm màn to, nặng làm bằng vải lanh mịn và chỉ xanh, tím, đỏ và thêu chê-ru-bim bằng vàng.
Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ xuất hiện trong Nơi Chí Thánh (Lê-vi Ký 16:2); do đó, sự cần thiết của tấm màn che. Có một rào cản giữa con người và Thiên Chúa. Không ai có thể tiếp cận sự thánh khiết của Đức Chúa Trời ngoại trừ thầy tế lễ thượng phẩm, và sau đó chỉ mỗi năm một lần. “Mắt Ngài quá tinh khiết, không thể nào nhìn thấy cảnh gian ác mà không làm gì cả;” (Ha-ba-cúc 1:13), và Ngài không thể dung thứ tội lỗi. Tấm mạng che mặt và các nghi lễ phức tạp do thầy tế lễ đảm nhận là lời nhắc nhở rằng con người không thể bước vào sự hiện diện đáng sợ của Đức Chúa Trời một cách bất cẩn hoặc bất kính. Trước khi thầy tế lễ thượng phẩm bước vào Nơi Chí Thánh vào Ngày Lễ Chuộc Tội, ông phải tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo đặc biệt, mang theo hương đang cháy để khói che mắt khỏi tầm nhìn trực diện của Đức Chúa Trời, và mang theo máu hiến tế để chuộc tội (Xuất Ai Cập Ký 28;Hê-bơ-rơ 9:7).
Ý nghĩa của Chí Thánh đối với những Cơ Đốc nhân được tìm thấy trong các sự kiện xung quanh việc Chúa Cứu Thế bị đóng đinh. Khi Chúa Giê-su chết, một điều lạ lùng đã xảy ra: “Bấy giờ Ðức Chúa Jesus kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn. Kìa, bức màn trong đền thờ bị xé ra làm hai, từ trên xuống dưới. Ðất rung, đá nứt” (Ma-thi-ơ 27:50-51a). Tấm màn che không bị xé làm đôi bởi bất kỳ người đàn ông nào. Đó là một biến cố siêu nhiên được thực hiện bởi quyền năng Thiên Chúa để nói lên một điểm rất cụ thể: nhờ cái chết của Chúa Cứu Thế trên thập giá, con người không còn bị ngăn cách với Thiên Chúa. Hệ thống đền thờ trong Cựu Ước đã trở nên lỗi thời khi Giao Ước Mới được phê chuẩn. Chúng ta sẽ không còn phải phụ thuộc vào các thầy tế lễ để thực hiện các lễ tế mỗi năm một lần thay cho chúng ta. Thân thể của Đấng Christ đã bị “xé ra” trên thập tự giá, giống như bức màn trong đền thờ bị xé ra, và bây giờ chúng ta được đến với Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu: Vậy thưa anh chị em, vì nhờ huyết của Ðức Chúa Jesus, chúng ta được dạn dĩ vào Nơi Chí Thánh bằng một con đường mới và sống mà Ngài đã mở cho chúng ta xuyên qua bức màn, tức xuyên qua xác Ngài,” (Hê-bơ-rơ 10:19-20).
Sự hy sinh một lần đủ cả của Đấng Christ đã loại bỏ sự cần thiết của sự hy sinh hàng năm, là điều không bao giờ có thể cất đi tội lỗi (Hê-bơ-rơ 10:11). Những sự hy sinh đó chỉ là hình bóng báo trước về sự hy sinh hoàn hảo sắp đến, đó là Chiên Con thánh của Đứcc Chúa Trời, bị giết vì tội lỗi của thế gian (Giăng 1:29). Nơi Chí Thánh, chính là sự hiện diện của Đức Chúa Trời, hiện đang mở cửa cho tất cả những ai đến với Đấng Christ bằng đức tin. Nơi trước đây có hàng rào hùng vĩ được các chê-ru-bim bảo vệ, Đức Chúa Trời đã mở một con đường bằng huyết của Con Ngài. (Gotquestions.org)
8. THẦY TẾ LỄ VÀ CON SINH TẾ
Thầy tế lễ thượng phẩm và con sinh tế đều là hình bóng chỉ về Chúa Jêsus. Như Kinh Thánh Hê-bơ-rơ 9:12 khẳng định: Chính Chúa Jêsus là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta bước vào nơi Chí Thánh chỉ một lần đủ cả, không dùng huyết của con sinh tế để chuộc tội, mà Ngài dùng chính huyết mình mà được sự chuộc tội đời đời nhằm thỏa mãn tính công bình của Đức Chúa Cha. Nếu chúng ta đọọc tiếp câu 13-14 thì trước giả Kinh Thánh Hê-bơ-rơ làm rõ ràng thêm cho chúng ta rằng: vì nếu như huyết của dê đực, bò đực, cùng tro của bò cái tơ mà các thầy tế lễ ngày xưa dùng nó tẩy uế phần xác thịt của con người và làm họ nên thánh thì huống chi huyết của Cứu Chúa Jêsus, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính mình không tì vích chi cho Đức Chúa Trời, thì huyết đó sẽ làm sạch lương tâm chúng ta khỏi công việc chết, đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng sống, là dường nào!.
Nhưng có một điểm khác biệt không thể nào lầm lẫn được là huyết của con sinh tế thời kỳ luật pháp chỉ dừng lại tại nơi tẩy sạch và làm cho loài người nên thánh (Hê-bơ-rơ10:4: “Vì huyết của bò đực và dê đực không thể cất tội lỗi đi được.”) nhưng huyết của Chúa Jêsus là một công trình trọn vẹn toàn hão của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại: Huyết nầy không những thanh tẩy ô uế, làm nên thánh, mà còn cất tội lỗi của thế gian đi. Đó cũng chính là sứ điệp đến từ trời mà thiên sứ hiện đến phán cùng Giô-sép trong giấc chiêm bao “Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Jêsus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội.” (Mathiơ 1:21). Amen.
Tóm lại, Đền Tạm và những trang thiết bị cùng những nghi lễ được cử hành nơi Đền Tạm là tiêu biểu của sự cứu chuộc của Cứu Chúa trong thời Tân Ước.
MS Huỳnh Ngọc Ẩn
——————————————————-
Nghiệm và Sống là tổng hợp của hai trang Dưỡng Linh và Nghiệm và Sống trước đây.
Đọc lại bài vở cũ:
Dưỡng Linh 1 – 2010-2018
Dưỡng Linh 2 – 2018-2022
Nghiệm và Sống – 2008-2022