Vườn Ê đen mới
NHỮNG CON SỐ ĐÁNG CHÚ Ý – GS Huỳnh Ngọc Ẩn
SỐ 4
“Một dòng sông chảy ra từ Ê-đen để tưới vườn và từ đó chia làm bốn nhánh” (Sáng thế 2:10).
“CHÚA bảo Áp-ram: “Con phải biết chắc rằng dòng dõi con sẽ kiều ngụ nơi đất khách quê người, phải phục dịch dân bản xứ và bị áp bức bốn trăm năm.” (Sáng 15;13)
“Các ngươi không được sấp mình thờ phượng các tượng ấy; vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ta hình phạt con cháu cho đến thế hệ thứ ba, thứ tư vì tội khước từ Ta của tổ tiên họ” (Xuất-ê-díp-tô 20:5)
Trong khi bị lưu đày ở Ba-by-lôn, tại kênh Kê-ba, Ê-xê-chiên thấy một thị tượng: “Tại trung tâm, có cái gì giống như bốn con sinh vật và hình dạng thế này: Nó giống như hình người. 6 Mỗi con có bốn mặt và bốn cánh; 7 các chân thẳng, bàn chân như bàn chân bò, sáng rực như đồng thau bóng loáng; 8 dưới các cánh ở bốn bên đều có tay người. Bốn con thú có mặt và cánh như sau” (Ê-xê-chiên 1:5-8)
“Có bốn người khiêng một người bại liệt đến cho Ngài. (Mác 2:39)
“Nhưng Xa-chê đứng dậy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, đây này, con xin phân phát một nửa tài sản của con cho người nghèo khổ, và nếu con có bóc lột ai bất cứ điều gì, con xin bồi thường gấp tư!” (Lu-ca 19:8) Ngài bảo: “Hãy đến xem!” Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều.[a] Vậy họ đến xem chỗ Ngài trọ và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy.” (Giăng 1:39)
Gia đình của Nô-ê được cứu khỏi nạn lụt gồm có 4×2=8 người.
Gia-cóp 4×3=12 người con trai.
Trời đất có bốn phương, tám hướng; thời tiết có bốn mùa.
Ý NGHĨA CỦA CON SỐ BỐN
Mùa trong tiếng Hi bá lai là moed, có nghĩa là “thời kỳ được Đức Chúa Trời chỉ định,” liên quan tới những ngày lễ tôn giáo. Điều răn thứ tư trong mười điều răn là: “Phải nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh” (Xuất 20:8). Ngày sa-bát được kết nối trực tiếp với tuần lễ sáng tạo. (biblestudy.org/meaning of number in bible).
Người con thứ tư của Gia-cốp là Giu-đa, từ này có nghĩa là ngợi khen. Chúa Giê-su về phần xác ra đời từ chi phái Giu-đa, danh xưng của Ngài là “sư tử thuộc chi phái Giu-đa như Gia-cốp đã tiên báo: “Cây trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa;
Gậy chỉ huy cũng không ra khỏi hai chân nó,
Cho đến khi người đến Si-lô,
Và các dân tộc vâng phục người.” (Sáng thế 49:10)
Số bốn theo nghĩa thuộc linh là dấu chỉ của sự vững vàng, thăng bằng. Muốn đạt đến mức vững vàng chúng ta cần kiên trì, thắng hơn mọi thử thách trong cuộc sống. (bing.com) Trong bảy bức thư gởi cho bảy Hội thánh ở Tiểu Á, Chúa Giê-su đều hứa sẽ thưởng cho “Người nào thắng.”
Trong Anh ngữ, câu ‘we are square,” hay là chúng vuông vức, nghĩa là chúng ta sòng phẳng, không ai mắc nợ ai.
Dallet là phụ âm thứ tư trong vần Hi bá lai. Dallet דלת là từ chỉ cánh cửa, cánh cổng và biểu thị sự chịu đựng cũng như trạng thái quên mình và khiêm tốn cần thiết để vượt qua nó. Nó chỉ ra cách đi qua các cánh cổng để biết được bí ẩn hiện hữu của chính mình và quay trở lại với sức mạnh của Aleph -chữ A trong vần Hi bá lai- Nguồn duy nhất của mọi tạo vật và hiện hữu. Dallet có hình dạng của một người đàn ông cúi xuống, biểu thị sự khiêm tốn và dễ tiếp thu. Nó đại diện cho sự tự vô hiệu hóa hay vô hiệu hóa bản ngã, cần thiết để nhận ra những mối liên hệ vốn có với Đấng Sáng tạo. Ngoài ra, đó là cấu trúc, hình thức và sự siêng năng cần thiết để nhận được.
GÓP Ý:
Chúa Giê-su công bố, “Chính Ta là cửa: Ai qua Ta mà vào sẽ được cứu. Người ấy vào, ra và tìm được đồng cỏ” (Giăng 10:9). “Ngài vốn có bản thể của Đức Chúa Trời…Vì Ngài vốn có bản thể của Đức Chúa Trời” (Phi-líp 2:6,8). Ngài là aleph, chữ thứ nhứt trong mẫu tự Hi bá, tương ứng với số 1, con cả giữa nhiều anh chị em (Rô-ma 8:29).
Dallet cũng là Dalit דלית, một người đàn ông đáng thương, người nhận được sự nhân từ của Đấng Tạo Hóa, được đại diện bởi Gimel. Đó là nhận thức rằng là con người, chúng ta không có gì của riêng mình, mà hoàn toàn phụ thuộc vào đấng sáng tạo và mọi hơi thở và chuyển động đều được ban cho chúng ta từ Ngài.
Cuối cùng, Dallet đại diện cho cấu trúc. Dạng một đường ngang và dọc của nó đại diện cho một lưới, tạo cấu trúc cho biểu mẫu. Nó có hình dạng giống như một bậc cầu thang, cấu trúc và khả năng vượt qua sức đề kháng cần thiết để nghiên cứu. Khi Dallet được đặt trong tên của một ai đó, nó cho thấy ý chí mạnh mẽ, siêng năng, kiên trì, nhẫn
nại, khả năng tập trung, tổ chức, lập kế hoạch và xây dựng. Nó cho chúng ta thấy cấu trúc và độ ổn định cần thiết để nhận. (http://www.walkingkabbalah.com/hebrew-alphabet-letter-meanings/).
SỐ 6
Ngày thứ sáu là ngày hoàn thành công trình sáng tạo của Đức Chúa Trời với việc tạo ra loài người “theo hình và tượng của Ngài.” Con số sáu liên hệ đến con người và sự yếu đuối, bất toàn. Cho nên Ê-va và A-đam bị sa chước cám dỗ. Con người thay vì làm sáng danh Chúa thì “thiếu hụt sự vinh hiển của Đấng Sáng Tạo.”
Sách Giô-suê kể chuyện dân Chúa vượt qua sông Giô-đanh, và đối diện thành Giê-ri-cô. Chúa truyền cho họ đi vòng quanh thành sáu lần, chỉ yên lặng để nhận biết Chúa là Đức Chúa Trời. Họ chỉ đi vòng quanh theo lệnh Chúa bởi vì họ không có khả năng đánh chiếm thành. Phần Chúa giao cho họ là đi vòng quanh, và phần Chúa là làm vách thành sụp đổ.
Trong mười điều răn, điều răn thứ tư liên hệ đến ngày nghỉ, vì con người không được thiết kế để làm việc liên tục 24 trên 24 giờ một ngày, và bảy trên bảy ngày một tuần. Tốt hơn là họ nên làm việc sáu ngày và dành một ngày để phục hồi sức khoẻ. Ngay như đất đai cũng chỉ có sức sinh sản trong sáu năm (Lê-vi 25:3, 21). Một người mua nô lệ chỉ được làm chủ người nô lệ trong sáu năm thôi (Phục truyền 15:12, 18).
Trang www. biblestudy.org:
Kinh Thánh Tân Ước ghi nhận sáu lần , phần lớn là từ những người tự cho mình là công chính, Chúa Giê-su được yêu cầu làm phép lạ để chứng minh Ngài là đấng mà Ngài tự xưng là đấng ấy:
SỐ 8
Năm 2008 Bắc Kinh được chọn tổ chức Thế vận hội quốc tế. Trung quốc chọn ngày tám tháng tám là ngày khai mạc thế vận bởi vì tiếng Trung số tám là bát, phát âm như bạc, con số đẹp như số 9.
Sau đây là một vài số tám trong Kinh Thánh:
Trên tàu của Nô-ê có tám người, tám người được Đức Chúa Trời chọn để tạo ra những thế hệ mới.
Sáng thế ký 17:12a: “Mọi người nam phải chịu cắt bì sau khi sanh được tám ngày,”
(21:4): “…và làm lễ cắt bì cho Y-sác, con mình khi được tám ngày, như lời Chúa truyền dạy.”
Xuất-ê-díp-tô 26:25: “Như vậy vách này có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng.”
Xuất Ê-díp-tô 7:7: “Lúc yết kiến Pha-ra-ôn, Môi-se đã được tám mươi tuổi, còn A-rôn tám mươi ba.”
Thi thiên 90:10: “Tuổi tác chúng tôi thọ được bảy mươi, Nếu mạnh khỏe thì tám mươi”
Lu-ca 2:21: “Khi được tám ngày, là lúc hài nhi chịu lễ cắt bì, con trẻ được đặt tên là Giê-su, tên thiên sứ đã đặt trước khi Ma-ri có thai.”
Ý nghĩa của số tám
Số tám có nghĩa là “sự sống lại, sự tái tạo, một khởi đầu mới.” (www.bing.com/meaning of number eight). Số tám cũng có nghĩa là “hy vọng, chân trời mới, và tương lai huy hoàng” (www.grunge.com/meaning of number eight).
Số 30
Con số 30 tượng trưng cho sự cống hiến cho một nhiệm vụ cụ thể hoặc kêu gọi. Các thầy tế lễ A-rôn ban đầu chuyên tâm phục vụ khi được ba mươi tuổi (Dân số ký 4: 3). Có lẽ Đức Chúa Trời chọn tuổi 30 vì đó là lúc một người đã trưởng thành cả về thể chất lẫn tinh thần và do đó có thể đảm đương những trách nhiệm lớn.
Giăng Báp tít, người có nguồn gốc thầy tế lễ (mẹ ông là dòng dõi của các con gái của A-rôn và cha ông là một thầy tế lễ), bắt đầu sứ vụ của mình ở tuổi 30. Vào mùa thu năm 26 sau Công nguyên, ở tuổi ba mươi, Chúa Giê-su Christ bắt đầu công khai rao giảng phúc âm (Lu-ca 3:23). Chức vụ của Ngài kéo dài trong ba năm rưỡi.
Con số này cũng có thể đại diện cho máu hiến tế của Chúa Giê-su, vì Ngài đã bị Giu-đa phản bội vì ba mươi miếng bạc. Hành động này là sự ứng nghiệm của lời tiên tri (Xa-cha-ri 11:12). Khi Giu-đa ném ‘tiền máu’ mà anh ta được trả lại vào đền thờ, các thầy tế lễ không nhận nó như một của lễ mà quyết định dùng tiền này để mua một cánh đồng
của người thợ gốm. Mặc dù họ không nhận thức được điều đó, nhưng những gì họ làm cũng là ứng nghiệm lời tiên tri (câu 13).
Chúa Giê-su, vào năm 30 sau Công Nguyên, đã chịu đau đớn và đổ máu quý giá của Ngài với tư cách là Chiên Con hy sinh của Đức Chúa Trời vì tội lỗi của thế gian.
Sự xuất hiện của con số ba mươi
Các cuộn sách Biển Chết được phát hiện trong các hang động ở bờ trên phía tây bắc của Biển Chết bắt đầu vào năm 1947. Trong số tất cả các cuộn sách được tìm thấy qua nhiều năm, 30 bản sao của Thi thiên đã được xác định.
Các tộc trưởng Salah (cháu của Shem), Peleg (người đã sống để chứng kiến các lục địa trên thế giới phân chia) và Serug (ông cố của Áp-ra-ham) có những người con trai đầu lòng ở tuổi 30.
Nhà tiên tri Ê-xê-chiên bắt đầu cuốn sách cùng tên của mình. vào năm thứ ba mươi (có thể là tuổi của ông vào thời điểm đó – Ê-xê-chi-ên 1: 1). Đó là lúc ông thấy khải tượng đầu tiên được ghi lại từ Chúa, được gọi là sự hiện thấy “bánh xe ở giữa bánh xe” hoặc “bánh xe trong bánh xe”.
Số 30 và Các Thẩm phán
Giai-rơ của Y-sơ-ra-ên, một trong những Thẩm phán của Y-sơ-ra-ên được mô tả trong Kinh thánh, có ba mươi con trai. Ông ta giàu có đến mức không chỉ cung cấp cho mỗi người một con ngựa riêng để cưỡi, mà còn cho mỗi người một thành phố với tổng giá trị là 30 (Các Quan Xét 10: 4). Íp-san, một Thẩm phán khác của Y-sơ-ra-ên, có ba mươi con trai và cùng một số con gái (Các Quan xét 12: 9).
Thông tin thêm về Ý nghĩa Kinh thánh của số 30
2 Sử 30 ghi lại Lễ Vượt qua quan trọng được cử hành trong triều đại của Vua Ê-xê-chia bởi Vương quốc Giu-đa. Kinh Thánh viết về 9 Lễ Vượt Qua quan trọng bổ sung trong Xuất Ê-díp-tô Ký 12, Dân số ký 9, Giô-suê 5, 2 Sử 35, E-xơ-ra 6, Lu-ca 2, Giăng 2 và 6, và Ma-thi-ơ 26.
Giô-sép, một tiêu biểu của Chúa Giê-su, được ba mươi tuổi khi Pha rô của Ai Cập đặt ông phụ trách tất cả những gì dưới quyền của. Vua Đa-vít, khi bắt đầu trị vì Y-sơ-ra-ên, cũng vào tuổi này (2Sa-mu-ên 5: 4).
Cả cái chết của A-rôn và Môi-se đều được dân Y-sơ-ra-ên thương tiếc trong ba mươi ngày (Dân số ký 20:29, Phục truyền luật lệ ký 34: 3).
Năm 30 sau Công nguyên, Hội thánh Tân Ước ra đời. Nó bắt đầu ở Giê-ru-sa-lem vào ngày Lễ Ngũ tuần (Chủ nhật, ngày 28 tháng 5) khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời giángtrên 120 cá nhân cử hành ngày Lễ. Sau đó trong ngày, thêm 3.000 người đã được làm báp têm, nhận được Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời và trở thành tín đồ đạo Đấng Christ (Công vụ 2).
—————————————–
Bài vở trang Tài Liệu cũ được lưu trữ tại đây: