Vườn Ê đen mới
Món Quà Hi Vọng – MS Ngô Việt Tân
Món Quà Hi Vọng
The Gift Of Hope
1 Phê-rơ 1:3-21
1. Hi Vọng về Quá Khứ (Hope for the Past)
A) Hi vọng quá khứ là được tái sanh.
“Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời là Cha Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta! Vì sự thương xót lớn lao, Ngài đã cho chúng ta được tái sinh với đầy hy vọng sống nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu sống lại từ kẻ chết,” (1 Phê-rơ 1:3).
B) Chúng ta cần Chúa soi sáng con mắt “để hiểu thấu thế nào là niềm hi vọng khi Ngài kêu gọi”
“lại soi sáng con mắt trong lòng anh chị em để hiểu thấu: Thế nào là niềm hy vọng khi Ngài kêu gọi, thế nào là cơ nghiệp giàu có vinh quang của Ngài giữa vòng các thánh” (Ê-phê-sô 1:18).
C) Hi vọng là quên đi quá khứ và nhắm mục đích cho hiện tại và tương lai.
“Thưa anh chị em, tôi không nghĩ rằng tôi đã chiếm được rồi. Nhưng chỉ chú tâm vào một điều: Quên đi những điều đã qua, phóng mình đuổi theo những điều phía trước, 14 nhắm mục đích đoạt được giải thưởng, là sự kêu gọi thiên thượng của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su” (Phi-líp 3:13-14).
2. Hi Vọng về Hiện Tại (Hope for the Present)
A) Vua Đa-vít trải nghiệm niềm vui thỏa khi được sống trong niềm hi vọng của Chúa.
“Bởi vua Đa-vít đã nói về Ngài: “Tôi luôn luôn thấy Chúa trước mặt tôi Vì Ngài ở bên phải tôi, nên tôi sẽ không bị rúng động. 26 Vì thế, lòng tôi vui mừng, lưỡi tôi hoan ca Thân thể tôi sẽ sống trong niềm hy vọng 27 Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi nơi âm phủ, cũng chẳng cho Đấng Thánh của Ngài thấy sự hư nát. 28 Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống. Chúa sẽ làm cho tôi đầy dẫy sự vui mừng trước mặt Ngài” (Công vụ 2:25-28).
B) Người tin kính Chúa cần trông chờ ngày Chúa Tái Lâm với thái độ “giữ mình”.
Chúng ta cần nhắc nhở lẫn nhau “hãy hết sức giữ mình cho không tì vết” hầu tránh khỏi sự cám dỗ của “Tiền, Tình, Tài.”
“như anh chị em trông chờ và mong ngày của Chúa mau đến. Ngày đó lửa sẽ hủy diệt các từng trời và mọi nguyên tố sẽ bị thiêu đốt tan chảy. 13 Nhưng theo lời Ngài đã hứa, chúng ta chờ đợi một trời mới và đất mới, nơi sự công chính cư ngụ. 14 Vì thế, anh chị em yêu dấu, vì anh chị em đang trông chờ việc nầy, nên hãy hết sức giữ mình cho không tì vết, không gì đáng trách và an hòa với Ngài” (2 Phê-rơ 3:12-14).
3. Hi Vọng về Tương Lai (Hope for the Future)
A) Niềm hi vọng của người công chính.
“Vậy, nếu anh hướng lòng về Chúa, Đưa tay lên hướng về Ngài, 14 Nếu có tội lỗi trong tay anh, hãy quăng xa đi, Đừng để tội ác cư ngụ trong lều trại anh, 15 Bấy giờ anh sẽ ngước mặt lên, lương tâm không gợn vết, Sống vững vàng, không sợ hãi chi. 16 Anh sẽ quên cảnh khổ nạn, Chỉ nhớ nó như dòng nước chảy qua. 17 Bấy giờ đời anh sẽ sáng chói hơn ban trưa, Cảnh tối tăm sẽ như trời hừng sáng. 18 Anh sẽ sống an ninh vì anh có hy vọng, Anh sẽ được che chở và nằm ngủ bình an. 19 Anh sẽ nằm nghĩ, và không ai gây cho anh sợ hãi; Nhiều người sẽ tìm anh xin ân huệ. 20 Nhưng kẻ ác sẽ mòn mắt trông đợi, Mọi lối thoát tiêu tan, Họ chỉ hy vọng thở hơi cuối cùng” (Gióp 11:13-20).
B) Chúa “biết rõ” và “hoạch định” “chương trình bình an thịnh vượng” và “tương lai đầy hy vọng” cho mỗi chúng ta.
“CHÚA phán: “Vì chính Ta biết rõ chương trình Ta hoạch định cho các ngươi. Ta có chương trình bình an thịnh vượng cho các ngươi, chứ không phải tai họa. Ta sẽ ban cho các ngươi một tương lai đầy hy vọng” (Giê-rê-mi 29:11).
C) Người tin cậy Chúa luôn đặt hi vọng nơi Ngài.
“Nhờ Ngài, anh chị em tin vào Đức Chúa Trời là Đấng đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết và ban cho Ngài vinh quang, như thế anh chị em đặt niềm tin và hy vọng nơi Đức Chúa Trời” (1 Phê-rơ 1:21).
D) Hi vọng tương lai của chúng ta là hi vọng vào ân điển của Chúa.
“Vậy, anh chị em hãy chuẩn bị tâm trí, bình tĩnh, đặt sự hy vọng hoàn toàn vào ân sủng sẽ được ban cho anh chị em trong ngày Chúa Cứu Thế Giê-xu hiện ra” (1 Phê-rơ 1:13).
• Những người sống không có hi vọng trong Chúa là những người “đau buồn – grieve”
“Thưa anh chị em, về những người đã ngủ, chúng tôi không muốn để anh chị em thiếu hiểu biết và đau buồn như những người khác không có hy vọng” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13).
“Brothers and sisters, we do not want you to be uninformed about those who sleep in death, so that you do not grieve like the rest of mankind, who have no hope” (1 Thess 4:13 NIV).
• Những người sống không có hi vọng trong Chúa là những người luôn “đặt hy vọng nơi của cải phù du” của thế gian tạm bợ này.
“Con hãy truyền bảo những người giàu có ở đời này đừng tự kiêu, đừng đặt hy vọng nơi của cải phù du, nhưng phải đặt hy vọng vào Đức Chúa Trời là Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta được hưởng. 18 Họ phải làm điều lành và rất nhiều việc phước thiện, cũng hãy rộng lượng, sẵn sàng chia sẻ cho người khác, 19 như thế là tồn trữ cho mình một kho báu có nền tảng vững bền trong tương lai để nắm vững sự sống thật. 20 Hỡi Ti-mô-thê, con hãy gìn giữ điều ủy thác cho con và tránh những lời hư không phàm tục và các điều tranh luận của tri thức giả tạo; 21 có những người vì tự nhận tri thức giả tạo ấy mà lạc mất đức tin. Nguyện xin ân sủng Chúa ở cùng anh chị em!” (1 Ti-mô-thê 6:17-21).
• Những người sống không có hi vọng trong Chúa là những người sẽ không có “đầy dẫy mọi sự vui mừng và bình an” (Rô-ma 15:13).
“Cầu xin Đức Chúa Trời là nguồn hy vọng ban cho anh chị em đầy dẫy mọi sự vui mừng và bình an khi anh chị em tin cậy Ngài, đến nỗi anh chị em đầy tràn niềm hy vọng bởi quyền năng Thánh Linh!” (Rô-ma 15:13).
• Những người sống không có hi vọng trong Chúa là những người không có đặt đức tin vào sự cứu chuộc của Chúa Giê-su (Hê-bơ-rơ 6:19-20; Rô-ma 5:1; 1 Phê-rơ 1:3).
“Chúng ta có hy vọng nầy như cái neo vững vàng bền chặt của linh hồn, đi vào bên trong bức màn, 20 là nơi thánh Đức Giê-su đã ngự vào, như Đấng Tiên Phong đại diện chúng ta, khi Ngài trở nên vị thượng tế đời đời, theo dòng Mên-chi-xê-đéc” (Hê-bơ-rơ 6:19-20).
• Những người sống không có hi vọng trong Chúa là những người không có “Chúa Cứu Thế ở trong” người đó.
“Đức Chúa Trời muốn tỏ cho họ biết vinh quang phong phú của huyền nhiệm đó giữa dân ngoại, tức là Chúa Cứu Thế ở trong anh chị em, là hy vọng về vinh quang” (Cô-lô-se 1:27).
MỤC SƯ NGÔ VIỆT TÂN
YOUTUBE: MỤC SƯ NGÔ VIỆT TÂN CHANNEL