Vườn Ê đen mới
CON TÀU SỐ 13 – Võ Anh Tuấn
Mặc dù câu chuyện này đã xảy ra 35 năm rồi, nhưng mỗi lần nhắm mắt để nhớ lại những ký ức này, Tuấn Anh vẫn có cảm giác là dường như chuyện này vừa mới xảy ra ngày hôm qua… Tuấn Anh xin được kể lại câu chuyện có tên là Con Tàu Số 13…
Sự việc bắt đầu vào ngày 6 tháng 8 năm 1986. Có một nhóm 17 người, trong đó có một em thiếu niên 15 tuổi đi với Bố, đã liều lĩnh lên một chiếc tàu nhỏ bé đang trốn thoát khỏi Việt Nam đi tìm tự do. Để tránh sự chú ý của công an biên phòng, họ chỉ chuẩn bị một ít thức ăn giới hạn, với hy vọng là vừa đủ cho vài ngày tới đảo Mã Lai như lúc đầu dự định. Từ tàu con, bọn họ giả dạng thành những nhóm ngư dân đánh cá, rồi lén lút bước lên tàu mẹ. Cuối cùng thì mọi người cũng trót lọt lên tàu vào lúc giữa khuya rạng ngày 6 tháng 8 năm 1986. Sau đó, tàu đã lặng lẽ tiến ra biển Đông Hải trong sự thở phào của mọi người.
Ngày đầu tiên trên biển thật là vất vả, bởi vì ngoài tài công và anh thợ máy, hầu hết mọi người không phải là dân đi biển cho nên từ già đến trẻ đều bị ói mửa la liệt, mặt mày bơ phờ. Tuy nhiên, mặc dù thể xác mệt mỏi, nhưng tinh thần thì ai nấy đều rất là phấn chấn. Mọi người mơ tưởng đến một vùng đất hứa đượm sữa và mật với một tương lai tươi sáng trên một khung trời tự do ở một quốc gia Âu Mỹ nào đó. Nhưng trong lúc bọn họ còn đang mơ tưởng, thì thình lình có một đám mây kéo đến. Một cơn giông lớn đang chuẩn bị xảy ra với sấm chớp ầm ầm, dường như là Ông Trời đang gửi một điềm báo trước về sự nguy hiểm và những điều không may sẽ xảy ra cho chuyến đi này. Mặc dù vậy, chiếc tàu nhỏ của họ đã can đảm lướt sóng vượt qua cơn thử thách đầu tiên một cách an toàn.
Ngày thứ hai có thể nói là ngày thuận buồm xuôi gió nhất của chuyến đi, bọn họ đã gặp được một tàu nước ngoài đầu tiên! Mặc dù tàu này đã không cứu họ, nhưng mọi người đều rất là phấn khởi vì biết rằng mình đã chính thức ra khỏi Việt Nam và đang trên hải phận quốc tế. Một vài người vẫn còn say sóng và ói mửa. Tuy nhiên cả đoàn tàu đều rất là hớn hở và tràn đầy hy vọng! Bất ngờ, tàu bị tắt máy. Trong lúc người thợ máy đang tìm cách sửa chữa, thì dường như tàu bị trôi thụt lùi trở lại. Thay vì chạy về hướng Nam tới Mã Lai thì giờ đây họ đang bị trôi ngược về hướng Bắc. Nửa ngày trôi qua, anh thợ máy cũng bó tay với cái máy tàu cũ kỹ. Mọi người thất vọng bèn ngồi lại để bàn một số trường hợp có thể xảy ra.
Thứ nhất, tàu có thể sẽ trôi về lại Việt Nam, sẽ bị công an bắt và sẽ bị đi tù. Thứ hai, tàu tiếp tục trôi và may mắn có thể sẽ gặp được tàu nước ngoài cứu vớt. Thứ ba, tàu sẽ trôi… trôi mãi, sẽ không gặp được bờ bến nào cả, và có thể cả tàu sẽ bị bỏ mạng trên biển. Mọi người im lặng hy vọng cho trường hợp thứ hai xảy ra, mặc dù ai cũng nhìn nhau lo lắng cho số phận có thể sẽ phải bỏ thây trên biển nếu trường hợp thứ ba xảy ra. Có vài anh biết chút ít về địa lý đã trấn an mọi người là nếu trôi theo hướng Bắc thì tàu có thể sẽ gặp được quần đảo Phi Luật Tân. Nhưng liệu mọi người có còn đủ lương thực ăn để sống sót cập đảo hay không? Bởi gạo, lương khô và nước uống trên tàu đã từ từ cạn dần. Cho nên giờ đây, ai biết Trời thì cầu Trời, ai biết Phật thì khẩn Phật, ai biết Chúa thì xin Chúa. Mọi người chỉ còn biết phó thác số phận của mình cho Đấng Thiêng Liêng mà thôi.
Một tuần lễ trôi qua, thức ăn và nước uống đã thật sự cạn kiệt. Giờ đây nguồn nước duy nhất có được chính là nước tiểu! Wow, thật là ớn khi nghĩ đến chuyện uống nước tiểu. Nhưng vì quá khát cho nên mọi người đã phải tự bóp mũi ực đại chén nước tiểu của mình vào miệng. Well, uống nước tiểu của chính mình dẫu sao cũng còn đỡ ớn hơn là uống nước tiểu của người khác. Nhưng uống được vài lần thì nước tiểu trong người cũng từ từ cạn kiệt. Thật là tuyệt vọng khi nhìn quanh chỉ thấy có mỗi bầu trời và nước biển mênh mông, không có một dấu hiệu gì của đất liền. Trong lúc này, có một số tàu nước ngoài chạy qua lại trên hải phận quốc tế, nhưng dường như họ cố tình làm ngơ trước sự van xin một cách tuyệt vọng từ chiếc tàu nhỏ bé này. Hình ảnh của Tử Thần đang từ từ hiện ra một cách rõ nét hơn.
Trong lúc mọi người đang tuyệt vọng thì Ông Trời đã bày tỏ lòng thương xót! Cô Hạnh, người phụ nữ duy nhất trên tàu, đã có 1 sáng kiến lấy nước biển đun sôi lên, cất hơi nước tạo thành nước tinh khiết không mặn và uống được. Thật cám ơn Trời Đất, sáng kiến kỳ diệu này đã kéo dài sự sống cho cả tàu. Mỗi ngày, họ chặt những miếng gỗ từ bề thành của chiếc tàu để làm củi chụm, và họ thay phiên nhau nấu nước từ sáng cho đến tối để có đủ nước nuôi sống cho 17 người. Cái hộp quẹt ga của anh thợ máy hút thuốc, giờ đây đã trở thành 1 công cụ quý giá nhất của cả tàu. Bởi vì ngày nào bật hộp quẹt lên mà có lửa thì ngày đó còn hy vọng có nước uống. Còn nếu lỡ bật lên mà ga bị nghẹt hay diêm không nẹt lửa thì coi như ngày đó sẽ không có nước uống và mọi người sẽ chết khát. Cho nên mỗi sáng, sau khi bật lửa xong, cái hộp quẹt ga này được bọc trở lại bởi hai lớp nylong và được nhét vào một 1 góc thật kín ở bên trong tàu để không bị nước biển làm hư.
Thật vậy, cơ thể con người có thể nhịn ăn cả tuần, nhưng nếu không có nước vào cơ thể, thì dù chỉ là nửa ngày, chắc chắn sẽ chết khát. Mỗi ngày, mỗi người được 5 muỗng nước để sống, sáng 2 muỗng, trưa 1 muỗng và tối trước khi đi ngủ được 2 muỗng. Mỗi khi chén nước được chuyền tới tay thì họ sung sướng như đang cầm 1 chén thần dược. Họ nâng niu chén nước, hớp từng ngụm vào trong miệng, để nước thấm vào cổ họng và chảy vào trong cơ thể, chảy đến đâu họ cảm nhận được đến đó. Họ thèm thuồng liếm đi liếm lại những giọt nước cuối cùng còn đọng lại trên chén. Ôi, có lẽ đây là những giọt nước ngon nhất trong cuộc đời của bọn họ!
Ngày thứ 22, sóng biển thình lình vỗ mạnh trở lại. Trong lúc mọi người đang núp vào bên trong tàu, thì bất ngờ, có một cơn sóng cao đánh ngang qua tàu và hất anh Văn lọt xuống biển. Một người ngồi gần đó, lập tức ném xuống biển một cái phao, hy vọng là anh Văn sẽ chụp lấy kịp thời. Nhưng rất tiếc… đó cũng là lần cuối cùng họ thấy được bóng dáng của anh Văn. Một cơn sóng khác ập đến và ngay lập tức anh bị cuốn trôi đi mất dạng. Mọi người trên tàu chỉ biết òa ra, ôm nhau mà khóc một cách nức nở, thương tâm cho một người đồng hành. Anh Văn là một thanh niên trẻ 25 tuổi, hoạt bát nhất ở trên tàu. Nhưng thật là đau lòng, anh buộc phải ra đi không một lời giã từ.
Mọi người đành phải vuốt nước mắt và hướng trở lại thực tại. Tình trạng trên tàu giờ đây cũng đang rất là bi đát và thảm thương. Bác Trường, 52 tuổi người cao tuổi nhất trên tàu, đang hấp hối gần chết. Trong những lời trăn trối cuối cùng, bác hứa là sẽ phù hộ cho cả tàu để đến được bến bờ bình an. Hai ngày sau, Bác Trường đã lặng lẽ ra đi. Mọi người đau buồn thả xác của bác xuống biển. Lúc đó có một tàu nước ngoài chạy ngang qua, nhưng cũng giống như bao chiếc tàu khác, họ đã dửng dưng bỏ đi một cách không thương xót. Đó là chiếc tàu thứ 32 mà những thuyền nhân này đã gặp trên hải phận quốc tế! Hai người đồng hành của họ đã ra đi, những người còn lại uể oải nhìn nhau xem ai sẽ là người kế tiếp đi theo.
Cảnh tượng trên tàu lúc này có lẽ giống như là địa ngục trần gian. Khí hậu biển rất là khắc nghiệt, ban ngày thì nóng như đổ lửa, nhưng ban đêm thì buốt lạnh đến thấu xương. Đó là những sự tra tấn bên ngoài cơ thể, bên trong cơ thể cũng bị hành hạ không kém. Bụng thì đói meo oằn oại, nhưng cổ họng thì bị những cơn khát nước hành hạ, đó mới thật là tàn nhẫn. Không có gì tra tấn cơ thể một cách đau đớn hơn bằng cách cho mắt được nhìn thấy đầy nước mênh mông nhưng trong cổ họng thì phải chấp nhận chịu khát vì không uống được nước biển. Ôi, ước gì trong giấc ngủ được nằm mơ và được uống một ly nước đá chanh, thậm chí chỉ mong được uống nước rửa chén cũng cam lòng. Nhưng tất cả những sự đau khổ này vẫn chưa phải là điều kinh khủng nhất xảy ra. Cảm ơn Trời là điều kinh khủng đó đã không có xảy ra trên chiếc tàu này!
Vào một buổi sáng trong tuần lễ thứ tư của chuyến đi, có một con chim nhỏ ở đâu bay đến và đậu trên bờ thành của tàu. Một người trong bọn họ đã chụp được con chim. Anh ta bẻ cổ nhổ lông con chim và bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Cảnh tượng thật là ghê rợn khi những giọt máu của chim đã nhễu xuống sàn tàu. Càng kinh khủng hơn khi 1 vài người khác khi nhìn thấy máu và thịt sống của chim thì họ bắt đầu nghĩ đến thịt người. Ngay sau đó, có một vài lời càu nhàu tiếc rẻ là đã bỏ phí xác của Bác Trường xuống biển. Sau một lúc lời qua tiếng lại, mọi người trên tàu đã nhanh chóng đi đến một quyết định thật là man rợ, đó là ai mà chết kế tiếp thì sẽ phải hiến thân cho cả tàu ăn thịt để kéo dài sự sống. Thật là không tưởng, cũng là con người với nhau, nhưng khi bị dồn nén đến đường cùng, loài người cũng có những suy nghĩ mất nhân tánh và dã man không khác gì loài thú. Ôi, thật cảm ơn Ông Trời đã thương xót không để sự việc man rợ kinh khủng này xảy ra cho bọn họ!
Ngày thứ 36! Hơn một tháng rồi, những bờ thành của tàu đã bị chặt gỗ để nấu nước, cho nên chiếc tàu mẹ giờ đây trông tàn tạ giống như 1 chiếc xuồng ba lá. Những người trên tàu cũng tàn tạ không kém, ai nấy chỉ còn da bọc với xương, cho nên không có ai còn đủ sức để ngồi dậy mà nấu nước nữa. Phía cuối tàu thì có anh Hùng, một người 40 tuổi, bị bệnh nặng đang nằm dài ra chờ chết. Một vài người khác thì chỉ còn đủ sức múc nước biển lên để tắm cho cơ thể được sạch sẽ trước khi chết. Trong lúc mọi người đang chờ đợi Tử Thần thì bất thình lình, họ nghe có tiếng máy tàu và tiếng người đang nói vang vọng. Mọi người liền bừng tỉnh dậy và nhìn lên thì thấy có một chiếc tàu, giống như ghe đánh cá đang chạy đến rất gần. Quá mừng rỡ, mọi người bèn la lên khóc lóc để xin cầu cứu.
Những người ngư phủ kia dường như đang nói chuyện với nhau điều gì đó, nhưng qua những dấu hiệu và hành động của họ cho thấy là họ đang muốn ném qua một số đồ ăn và nước. Thật không thể tưởng tượng, khi chụp được những bọc lương khô và mấy hộp nước, những thuyền nhân này đã ăn uống một cách ngấu nghiến. Chao ôi, chưa bao giờ ăn uống mà nó ngon như vầy! Những ngư phủ bên kia đã lắc đầu khi họ phải chứng kiến 1 cảnh tượng ăn uống một cách khủng hoảng từ những người bị ốm đói như vầy. Có lẽ vì một lý do nào đó, họ không thể cứu vớt tàu của những thuyền nhân này. Tuy nhiên, trước khi rời đi, những ngư phủ đã ném qua nhiều bộ quần áo, mền gối, và một chiếc khăn vải màu trắng đã viết 3 chữ S.O.S. Mặc dù không hiểu tiếng nước ngoài, nhưng mọi người cũng mờ đoán được đó là ký hiệu của sự cầu cứu, hy vọng các tàu nước ngoài khác sẽ thấy và cứu họ.
Cảm động trước tấm lòng nhân đạo của những ngư phủ này, mọi người thuyền nhân đã quỳ lạy chia tay họ với đầy lòng biết ơn. Trở lại thực tế, những lương thực mà họ đang có sẽ nuôi sống cho cả tàu được thêm vài ngày. Điều quan trọng là họ đã biết ăn uống từ từ trở lại không họ phải bị chết no, vì ai nấy bao tử đã trống rỗng cả hơn tháng nay. Nhìn thấy nhãn hiệu “Product of Taiwan” từ những hộp đồ ăn, mọi người có thể mờ đoán là họ đang trôi gần đến vùng biển của Đài Loan và Trung Quốc. Thật là không tưởng, một chiếc tàu nhỏ bé như vầy mà đã trôi gần 2000 dặm trên Thái Bình Dương!
Năm ngày sau, ngày thứ 41 của chuyến hải trình, ngày định mệnh, ngày 16 tháng 9 năm 1986, là 1 ngày phước hạnh đã đến! Sóng biển bắt đầu vỗ mạnh trở lại, gió bắt đầu thổi nhiều hơn, mây đen bắt đầu phủ kín bầu trời, tất cả dường như báo hiệu là sẽ có một cơn bão lớn đang chuẩn bị xảy ra. Con tàu nhỏ bé của bọn họ giờ chỉ còn trơ trọi vài miếng ván, chắc chắn sẽ không thể chống được với bất kỳ một cơn sóng lớn nhỏ nào cả. Cho nên, mọi người đành phải trở về “công việc cũ”, đó là…“ngồi chờ chết.” Một vài người khác nhẩm tính được đêm 16 tháng 9 theo âm lịch là đêm Rằm Trung Thu, cho nên mọi người quyết định đem hết đồ ăn nước uống ra cúng rằm cũng như cầu xin Ông Trời ban cho một phép lạ cuối cùng. Trong lúc mọi người đang cầu nguyện thì có một chiếc tàu chạy qua từ đằng xa. Cho đến lúc này mọi người đã quá mệt mỏi trong việc kêu cứu nên đã không có ai để ý đến chiếc tàu này. Đó là chiếc tàu thứ 47 mà họ đã gặp trong chuyến đi này!
Thật không thể tưởng tượng được, chiếc tàu từ rất xa mà mọi người vừa nhìn thấy nhỏ xíu lúc nảy, giờ đây đang từ từ tiến gần lại và xuất hiện càng lúc càng to. Mọi người dường như bắt đầu tin vào phép lạ cuối cùng mà họ vừa mới cầu nguyện, nên mọi người đã ào ra, hướng về chiếc tàu lớn, vang khóc lên và kêu cứu. Họ kéo anh Hùng ra giữa tàu để cho tàu lớn thấy, hy vọng nhận được sự thương hại nhân đạo bởi vì giờ đây anh đang bị hấp hối giống như là một cái xác đang chết. Trong lúc mọi người vẫn chưa thật sự dám tin vào những gì họ đang thấy thì giờ đây chiếc tàu khổng lồ với 5 ụ tròn màu vàng to lớn đã sừng sững đậu lại và mọi người có thể nhìn thấy các thủy thủ đang hạ chiếc tàu nhỏ xuống nước để chuẩn bị cho việc cứu vớt.
“Trời ơi, họ thật sự sẽ cứu mình sao?” một em thiếu niên trong đám thuyền nhân đã yếu ớt kêu lên. Mọi người có lẽ vì chưa dám tin vào những gì họ đang thấy, hay có lẽ là vì họ đang quá vui mừng trước sự cứu vớt mầu nhiệm đang diễn ra nên không ai chú ý đến câu hỏi của em. “Trời ơi, mình được cứu rồi, con cám ơn Trời Đất” em thiếu niên đó đã khóc lên trong sự nức nở và mừng rỡ. Đúng như vậy thưa hội thánh, những người thuyền nhân tội nghiệp này đã được cứu! Nhìn thấy những thủy thủ đang ẵm từng người một, bước trên cầu thang để lên tàu lớn, những người thuyền nhân này đã oà ra khóc nức nở. Nhưng khác với lần trước đây, lần này họ khóc trong sự mừng rỡ với ngập tràn sự hạnh phúc bất tận. Như một giấc chiêm bao 41 ngày đêm ngủ mê trong đau đớn, và giờ đây cơn ác mộng dài đã trôi qua, mọi người đang bừng tỉnh giấc như chết đi vừa mới được sống lại. Mặc dù cơ thể ai nấy đều hoàn toàn kiệt quệ, không ai đứng dậy nổi, tuy nhiên giống như có một phép lạ mầu nhiệm đang chạm đến, mọi người đều rất tươi tỉnh và sung sướng nói với nhau, “Mình được sống rồi, mình được sống rồi.” Trong sự mừng rỡ của chết đi sống lại, em thiếu niên lúc nảy đã can đảm bập bẹ nói một câu tiếng Anh với một người thủy thủ, “Today is the birthday.” Thật ra, ý của em muốn nói rằng, “Today is the day I was born again!”
Thưa hội thánh, em thiếu niên may mắn, người đã vui mừng được sanh lại lần thứ hai vào hôm tối của ngày 16 tháng 9 năm 1986, là Tuấn Anh, cũng chính là người viết và đang kể lại cho quý vị nghe câu chuyện kỳ diệu này. Những người ân nhân cứu Tuấn Anh và cả tàu 35 năm về trước là ông thuyền trưởng và các thủy thủ người Hoa Kỳ làm việc trên chiếc tàu chở dầu khí mang tên là LNG ARIES. Chiếc tàu này đang trên tuyến hải trình từ Singapore đến Nhật Bản.
LNG ARIES lẽ ra đã chạy qua khỏi tàu của chúng tôi, nhưng ông thuyền trưởng và các thủy thủ đã thấy chúng tôi đang lênh đênh nên họ đã quyết định quay tàu trở lại bởi vì khí tượng trên tàu đã dự báo trước là sẽ có một cơn bão lớn trong đêm 16 tháng 9 của năm 1986. Vì lẽ đó, họ biết rằng nếu họ làm ngơ bỏ đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ bị cơn bão này kéo xuống đáy biển của Thái Bình Dương. Cho nên, vì tình yêu thương và vì lòng nhân đạo giữa con người đối với con người, ngài thuyền trưởng và các thủy thủ đã quyết định quay tàu ngược lại và cứu vớt chúng tôi. Thật là một nghĩa cử đầy lòng nhân đạo mà chắc chắn suốt đời chúng tôi sẽ không bao giờ quên! 5 ngày sau, LNG ARIES cập bến Nagoya, một hải cảng lớn của Nhật. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được chuyển tới trại tị nạn Omura Refugee Center ở tại thành phố Nagasaki. Anh Hùng vì bị hấp hối gần chết nên phải được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện tại cảng Nagoya. Nhưng rất tiếc, bởi vì các nội tạng trong cơ thể của anh đã bị suy nhược trầm trọng và đã không thể hoạt động trở lại được, cho nên 19 ngày sau, tin buồn gửi đến trại là Anh Hùng đã qua đời. Thật là đau lòng!
Hành trình tìm tự do của chúng tôi khởi hành có 17 người, nhưng kết cục chỉ còn 14 người, kể cả Tuấn Anh và ba của Tuấn Anh, còn sống sót để được tiếp tục hít thở những ngọn gió tự do này. Có 13 nhóm người Việt tị nạn đến Nhật trong năm 1986 và nhóm chúng tôi là nhóm số 13, cũng là nhóm tị nạn cuối cùng đến trại Omura trong năm đó, và đó là lý do mà tàu của chúng tôi được những người trong trại đặc tên là Con Tàu Số 13. Cũng qua chuyến đi đầy gian nan này, số phận đã đưa đẩy cho Tuấn Anh có cơ hội biết về nước Nhật và xứ sở hoa anh đào. Nhưng thưa hội thánh, ý nghĩa đặc biệt hơn hết là cũng nhờ kinh nghiệm 41 ngày chết đi sống lại lần này, 2 cha con chúng tôi đã có dịp mở lòng để bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm Chúa.
Thậm chí với những y khoa tân tiến và sự chăm sóc rất là chu đáo của Nhật, đã phải mất hơn một tháng, Tuấn Anh mới có thể bắt đầu chập chững từng bước như những em bé mới biết đi. Rất là hồi hộp khi Tuấn Anh bắt đầu chạy được lần đầu tiên sau hai tháng. Cuộc sống của Tuấn Anh đã trở lại bình thường sau ba tháng phục hồi sức khỏe. 10 tháng sau, 2 cha con được rời Nhật Bản để đi đến trại chuyển tiếp ở Bataan, Phi Luật Tân. Vào ngày 27 tháng giêng năm 1988, chúng tôi được rời Phi để bay đến Hoa Kỳ và được định cư ở tại thành phố Fort Worth thuộc tiểu bang Texas.
Lúc còn ở VN, cũng giống như bao gia đình khác, Tuấn Anh và cả gia đình theo thờ cúng ông bà. Chúng tôi biết là có ông Trời, là Thượng Đế, là Đấng Chí Cao của vũ trụ, nhưng Đấng đó là ai thì chúng tôi thật sự không biết. Sau 30 tháng 4 năm 1975, rất nhiều điều ngang trái xảy ra trong xã hội VN làm cho chúng tôi càng nghi ngờ nhiều hơn về sự tể trị và sự hiện diện công bằng của ông Trời. Nhưng sau khi bị đối diện với 41 ngày chết đi sống lại trên đại dương, 2 cha con chúng tôi đã thật sự tin Ông Trời là có thật đang hiện hữu trên thế gian này. Chúng tôi tin rằng Ông Trời là Đấng nhân từ, Đấng đầy lòng thương xót đã thật sự chăm sóc, che chở và bảo vệ tàu của 2 chúng tôi trong suốt 41 ngày lênh đênh trên biển. Khi chúng tôi không còn nước uống chuẩn bị chết khát, thì Ông đã cho chị Hạnh nghĩ ra sáng kiến tạo ra nước cất kéo dài sự sống cho cả tàu. Khi chúng tôi không còn sức lực để nấu nước, thì Ông đã cho xuất hiện những ngư phủ Đài Loan cho lương thực để kéo dài sự sống cho cả tàu. Và khi chúng tôi không còn khả năng để đương đầu với bão lớn, thì Ông đã cho tàu dầu LNG ARIES đến cứu sống cho cả tàu. Đúng vậy, chúng tôi vẫn chưa có dịp hỏi ông Trời về sự ra đi đau lòng của anh Văn, bác Trường và anh Hùng, nhưng chúng tôi biết chắc là 14 người chúng tôi đã được Ông che chở, bảo vệ và cứu vớt bởi vì Ông là Đấng thương xót. Nhưng Đấng đó thật sự là ai, ở đâu, đó là điều mà chúng tôi đã tự hỏi và tìm kiếm trong suốt 10 tháng tạm cư ở Nhật. Chúng tôi đã thăm viếng rất nhiều những đền thờ của Nhật, với hy vọng là có thể tìm được rõ ràng về Đấng Chí Cao đã cứu vớt chúng tôi.
Khi rời Nhật qua đến Phi Luật Tân, chúng tôi vẫn trung tín đến những ngôi chùa bên Phi tiếp tục tìm kiếm Đấng đã cứu vớt chúng tôi. Khi còn ở Nhật, chúng tôi có lập 1 cái bàn thờ nhỏ để thờ cúng ông Trời. Khi rời Nhật, chúng tôi cẩn thận đem theo cái bàn thờ này qua Phi để tiếp tục thờ ở trong trại. Tuy nhiên, không hiểu vì sao, cả 2 cha con đều có 1 cảm giác rất là trống ở trong tâm hồn về sự liên hệ của mình với Đấng Chí Cao vô hình này. Chúng tôi có cảm giác giống như là chúng tôi đang thờ cúng 1 ai đó chứ không phải là thật sự thờ Đấng Cứu Rỗi, là đấng đã đồng hành và đã bảo vệ chúng tôi trên biển khơi!
6 tháng sau, chúng tôi được cao ủy tị nạn cho đi định cư ở Hoa Kỳ. Trước khi rời Phi, chúng tôi đã chuẩn bị sắp xếp gói tất cả đồ đạc mà chúng tôi có được trong cuộc đời tị nạn để đem qua Mỹ. Thật không ngờ, chúng tôi đã mang theo mọi thứ, ngoại trừ cái bàn thờ nhỏ mà chúng tôi đã liên tục thờ cúng trong suốt 10 tháng ở Nhật và 6 tháng ở Phi. Điều trớ trêu là cho đến lúc chúng tôi chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường DFW thì chúng tôi mới biết là mình đã để quên cái bàn thờ ở lại bên Phi. Oh well, chúng tôi định là sẽ làm lại 1 bàn thờ mới sau khi đến Mỹ. Nhóm bảo trợ cho 2 cha con chúng tôi là cơ quan World Relief đã đưa chúng tôi đến ở chung nhà với 1 gia đình người Việt nọ. Gia đình này, lúc bấy giờ, đang sinh hoạt với Hội Thánh Tin Lành VN ở thành phố Fort Worth. Vì vậy, trong bữa Chúa Nhật 31 tháng giêng năm 1988, chúng tôi được mời đến tham dự thờ phượng ở tại đây và đó là lần đầu tiên trong đời chúng tôi được bước chân đến 1 Hội Thánh Tin Lành.
Thưa quý vị, đó là lần đầu, là lần đã mở đầu cho rất nhiều lần phước hạnh khác mà chúng tôi đã có được khi chúng tôi được thờ phượng một Đấng Chí Cao thật sự, là Đức Chúa Trời yêu thương. Lần đầu tiên trong đời, chúng tôi được đọc Kinh Thánh, được hát thánh nhạc, được vui thỏa thông công trong nhà của Chúa, và tất cả đều là những kinh nghiệm quý báu và đáng nhớ. Cuối cùng chúng tôi đã thật sự nhận biết rằng Đấng Chí Cao mà chúng tôi đã luôn tìm kiếm trong suốt hơn 1 năm qua chính là Đức Chúa Trời, là Chúa Jesus Christ Đấng Cứu Rỗi của cả nhân loại. Chúa Ngài là Đấng thương xót, Ngài đã chăm sóc, che chở và bảo vệ chúng tôi trên biển khơi. Hơn thế nữa Ngài là Đức Chúa Trời quyền uy, nhưng Ngài cũng là Đức Chúa Trời với đầy lòng bác ái. Hồi tưởng nhớ lại những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm trên chuyến hành trình tìm tự do của chúng tôi, cảm xúc chợt dâng tràn khi lần đầu tiên chúng tôi được nghe và hát bài ca Thi Thiên 23: “¯Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, Tôi chẳng lo sợ chi¯; vì Chúa ở cùng tôi; Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi. Chúa dọn bàn cho tôi Trước mặt kẻ thù nghịch tôi; Chúa xức dầu cho đầu tôi, Chén tôi đầy tràn. Quả thật, trọn đời tôi Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi; Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va Cho đến lâu dài.”
2 tháng sau khi biết và được kinh nghiệm Chúa Jesus, Tuấn Anh đã mạnh dạn xưng ra tội lỗi và xác nhận niềm tin của mình, mời Chúa Jesus vào lòng và nhận biết Ngài là Đấng Cứu Rỗi. Trong bữa Lễ Phục Sinh đầu tiên ở tại Hoa Kỳ, Tuấn Anh đã được MS Hà Quan Ngọc làm thánh lễ Baptem, được làm con cái của Chúa. Trong suốt những năm tháng qua trên con đường bước đi theo Ngài, có lúc thịnh vượng, lắm lúc khác cũng gặp những gian nan thử thách, nhưng trong mọi sự Chúa vẫn luôn là Đấng Thành Tín. Chúa ôi, được Ngài cứu vớt, con vui mừng tạ ơn Ngài, như lời ca của vua David trong Thi-Thiên 23, ¯Trọn đời con hạnh phúc sẽ theo con. Trọn đời con thương xót sẽ theo con. Con sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va muôn đời¯…Amen
VÕ ANH TUẤN
—————————————————————————————
Chia Sẻ Niềm Tin gồm hai trang Đức Tin và Tạ Ơn Chúa trước đây tổng hợp lại. Đọc bài vở trang:
Đức Tin (2009-2022)
Tạ Ơn Chúa (2008-2021)